Ettore Bastianini: Bước thăng trầm của một huyền thoại

Là một trong những giọng nam trung xuất sắc nhất nước Ý kể từ sau thời của Tita Ruffo huyền thoại, Ettore Bastianini không có được một sự nghiệp dài hơi, thời kỳ đỉnh cao của ông chỉ kéo dài trong khoảng thời gian 10 năm (1953-1962) nhưng đó là 10 năm tuyệt vời khi thế giới opera chứng kiến một giọng hát đẹp lộng lẫy, trữ tình tuyệt hảo nhưng cũng không thiếu chất anh hùng ca.

Nhạc cảm tuyệt vời khiến Ettore Bastianini có thể thành công trong rất nhiều vai diễn. Nguồn: discogs.com

Vốn khởi đầu sự nghiệp với chất giọng bass, âm sắc của Bastianini vô cùng dày dặn, toát ra sự mạnh mẽ đầy quyền lực, nhưng cũng vô cùng tự nhiên ở âm vực cao, tỏa ra ánh sáng rực rỡ. Bên cạnh đó, nhạc cảm tuyệt vời khiến ông có thể thành công trong rất nhiều vai diễn, đặc biệt trong các vở opera của Verdi. Trong những năm tháng kỳ diệu đó, Bastianini đã “đốt cháy” rất nhiều sân khấu opera, mang đến cho khán giả những khoảnh khắc vô cùng ấn tượng.

Khởi đầu từ giọng bass

Bastianini sinh ngày 24/9/1922 tại Siena, trung tâm của vùng Tuscany nước Ý. Cậu bé lớn lên với người mẹ của mình mà không biết mặt cha. Ngay khi học xong tiểu học, Gaetano Vanni, người hàng xóm sở hữu một cửa hàng bánh nhưng đồng thời cũng là một giọng nam cao đã phát hiện ra tài năng thanh nhạc của Ettore và dạy cậu những bài học đầu tiên. Vanni để cậu tham gia vào Coro della Metropolitana, một dàn hợp xướng địa phương. Ettore rất thích thể thao, đặc biệt là bóng đá cũng như quần vợt và đua xe đạp đồng thời tỏ ra xuất sắc trong tất cả những môn mà mình tham gia. Năm 1939, khi 17 tuổi, Vanni gửi cậu đến học hát với Fathima Ammannati Vannoni, người cùng với chồng được coi là những giáo viên thanh nhạc xuất sắc nhất Siena lúc đó. Rất thích dải âm trầm của Ettore, họ quyết đào tạo anh thành một ca sĩ opera giọng bass. Cuối năm 1941, anh gia nhập tổ chức Dân quân tự vệ cho an ninh quốc gia, một tổ chức phát xít, trung thành với Benito Mussolini. Ettore giải thích cho quyết định của mình: “Đầu tiên là tôi được ăn, sau đó là không phải chịu rủi ro khi ở Đức”. Năm 1942, anh giành giải nhất tại cuộc thi hát do Teatro Comunale, Florence tổ chức, qua đó giành được học bổng tại nhà hát này. Tuy nhiên, anh bị chuyển sang lực lượng Không quân với vị trí một thợ máy và từng phục vụ tại Sardinia, Sicily và Bắc Phi nên phải tạm dừng việc học hát. Ngày 28/1/1945, mặc dù vẫn trong quân ngũ, Ettore đã tổ chức buổi hòa nhạc đầu tiên của mình tại Teatro Rex, Siena với các aria “Vecchia zimarra” (La Bohème, Puccini) hay “La calunnia” (Il barbiere di Siviglia, Rossini). Sự nghiệp ca hát chuyên nghiệp của anh đã bắt đầu trong vai trò ca sĩ giọng bass.

Tháng 7/1945, khi chiến tranh kết thúc, Bastianini tiếp tục theo học thanh nhạc tại Teatro Comunale nhờ khoản học bổng trước đó với vợ chồng Flaminio Conti và Dina Mannucci. Ngày 16/11/1945, ông có được vai diễn opera đầu tiên trong sự nghiệp khi hát trong Colline (La Bohème) tại Ravenna. Trong năm sau, ông tiếp tục có được những màn ra mắt trong Sparafucile (Rigoletto, Verdi), Don Basilio (Il Barbiere di Siviglia) và Bonzo (Madama Butterfly, Puccini). Tháng 1/1947, Bastianini có được chuyến lưu diễn đầu tiên tới Ai Cập cùng với thầy giáo của mình, soprano Dina Mannucci. Ông đã hát trong Rigoletto, Il barbiere di Siviglia và lần đầu tiên với Raimondo (Lucia di Lammermoor, Donizetti). Trong những năm tiếp theo, Bastianini tiếp tục củng cố danh tiếng của mình với giọng bass đầy triển vọng với các chuyến biểu diễn khắp nước Ý cũng như tại nước ngoài như Tây Ban Nha, Ai Cập và thậm chí là vượt Đại Tây Dương tới Venezuela. Ngày 24/4/1948, ông lần đầu xuất hiện tại La Scala với vai Tiresias trong vở opera Oedipus rex của Stravinsky. Tuy nhiên, giọng bass của Bastianini dần dần đã bộc lộ điểm yếu của mình khi bị hạn chế về âm lượng và khi xuống thấp, giọng hát trở nên mềm và yếu hơn. Ông gặp khó khăn trong khi hát những nốt thấp nhất, ví dụ như nốt Pha trong vai Sparafucile.

Năm 1951, trong một lần tập vai Il Padre Guardiano (La forza del destino, Verdi) với thầy giáo của mình Luciano Bettarini, tình cờ xuất hiện đoạn “Tu mi condanni a vivere” vốn dành cho giọng nam cao, Bastianini đã vô thức hát theo. Chứng kiến học trò của mình rất thoải mái với những nốt cao, Bettarini đã thốt lên: “Tôi không còn nghĩ cậu là giọng bass nữa”. Ngay cả giọng nam trung đàn anh Gino Bechi cũng nói với Bastianini: “Cậu thực sự là một giọng nam trung. Tôi thật ngu ngốc khi nói vậy vì tôi không cần thiết phải có thêm sự cạnh tranh, nhưng đó là sự thật”. Bản thân Bastianini trước đó nghĩ mình cũng có thể thử sức trong những vai giọng baritone mà ông cảm thấy khá thoải mái. Nhưng những người xung quanh đã thuyết phục ông rằng điểm mạnh của ông nằm ở những khoảng tối và sâu hơn trong giọng hát nên Bastianini đã từ bỏ ý định. Tuy nhiên, lần này ông đã quyết tâm thay đổi.

Ettore Bastianini (ngoài cùng bên trái) cùng những người bạn thân thiết, soprano Maria Callas, tenor Franco Corelli, tập dượt cho vở “Poliuto” ở Teatro La Scala năm 1960 (hoặc 1961) cùng nhạc trưởng Antonino Votto. Nguồn: taminoautographs.com

Bastianini tiếp tục theo học với Bettarini với mục tiêu chuyển sang giọng baritone. Năm tháng sau, ngày 17/1/1952, ông xuất hiện tại Siena với vai Germont (La traviata, Verdi), đánh dấu lần đầu tiên baritone Bastianini công diễn trước khán giả. Tại liên hoan này, ông còn hát hai aria nam trung trong các vở Andrea Chénier (Giordano) và Il Trovatore (Verdi). Tuy nhiên, những nốt cao sáng chói, sau này sẽ trở thành điểm mạnh của ông vẫn chưa được ổn định. Sau sáu tháng rèn luyện nữa, ngày 19/7, ông quay trở lại Siena với Rigoletto. Mùa thu năm đó, Bastianini cùng với Virginia Zeani trong La traviata tại Bologna và đây là một thành công vang dội. Tên tuổi của ông trở thành tâm điểm của báo chí sau đó. Tháng 12, ông xuất hiện tại Teatro Comunale trong vai Yeletsky (Con đầm pích, Tchaikovsky), nhạc trưởng nổi tiếng Artur Rodziński đã hoàn toàn bị thuyết phục.

Chiếm lĩnh các sân khấu hàng đầu thế giới

Kể từ đó, Bastianini nhận được nhiều lời mời tại các nhà hát danh giá hơn và ông có cơ hội cộng tác với những ngôi sao opera thời bấy giờ. Có thể kể đến Maria Callas và Giacomo Lauri-Volpi (sau đó là Giuseppe di Stefano) trong Lucia di Lammermoor hay Franco Corelli trong Chiến tranh và hoà bình của Prokofiev (lần công diễn đầu tiên bên ngoài Liên Xô tác phẩm này). Bastianini và Corelli thường được hay so sánh với nhau vì đều là những ngôi sao opera trẻ đầy triển vọng và sở hữu vẻ ngoài điển trai như tài tử điện ảnh. Ngày 5/12/1953, ông có màn ra mắt tại Metropolitan Opera trong vai Germont bên cạnh Licia Albanese và Richard Tucker. Sau khi kết thúc aria “Di Provenza il mar”, Bastianini đã nhận được một cơn bão những tràng vỗ tay, ngay cả khi nhạc trưởng đã bắt đầu phần sau đó. Giọng hát tuyệt đẹp của ông đã được so sánh với đồng và nhung vì có thể thể hiện sức mạnh và sự mềm mại cùng một thời điểm. Ông sẽ còn tiếp tục gắn bó với Met trong bảy năm tiếp theo với hơn 80 buổi biểu diễn trong 10 vai. Thành công nối tiếp thành công, Bastianini nhận được vô số lời mời biểu diễn tại khắp những nhà hát danh tiếng trên toàn thế giới.

Được hát tại La Scala có lẽ là mơ ước của bất kỳ ca sĩ opera nào. Bỏ qua vai diễn nhỏ trong Oedipus rex, Bastianini có lần xuất hiện đầu tiên tại La Scala với tư cách một baritone ngày 10/5/1954 trong Onegin (Eugen Onegin, Tchaikovsky) cùng với Renata Tebaldi và Giuseppe di Stefano. Trong khoảng 10 năm, ông đóng trong hơn 20 vai diễn tại nhà hát này. Ngày 28/5/1955, cùng với Callas và di Stefano, Bastianini đã hát trong buổi biểu diễn huyền thoại tại La Scala dưới sự chỉ huy của Carlo Maria Giulini và đạo diễn Luchino Visconti. Ngày 5/11/1955, tại Lyric Opera of Chicago, Bastianini đã hát vai bá tước di Luna (Il trovatore) trong lần xuất hiện duy nhất của Callas và Jussi Bjorling trên sân khấu opera.

Cũng trong giai đoạn này, ông đã thực hiện một số bản thu âm nổi tiếng của mình với Decca classics như La favorita (Donizetti), La forza del destino, La Bohème, Andrea Chénier, Il barbiere di Siviglia và nhiều vở khác nữa. Bạn diễn của ông đều là những ngôi sao danh tiếng như Giulietta Simionato, Mario del Monaco, Carlo Bergonzi, Tebaldi, Cesare Siepi, một thế hệ hoàng kim. Mặc dù cũng gặt hái được nhiều thành công trong những vở opera bel canto hay verismo nhưng tâm điểm trong danh mục biểu diễn của Bastianini chính là những tác phẩm của Verdi. Xuất phát điểm là giọng nam trầm, thế mạnh của ông đương nhiên là dải âm thấp với sự đầy đặn, vang rền đầy nội lực, cực kỳ mạnh mẽ. Bergonzi đã miêu tả về ông: “Một giọng hát với vẻ đẹp tự nhiên, âm sắc đồng đều, cách phân câu và cử chỉ sang trọng, cách nhả chữ đầy biểu cảm, một nền tảng kỹ thuật chắc chắn và, không phải cuối cùng, một sự nghiêm túc sâu sắc và kỷ luật chuyên nghiệp: đó là những đặc điểm cơ bản của Ettore Bastianini, người có lẽ là baritone Verdi thực sự cuối cùng”.

Giai đoạn 1953-1962 thực sự là đỉnh cao nhất trong sự nghiệp của ông. Ông xuất hiện liên tục tại hầu hết những sân khấu lớn trên thế giới với những bạn diễn tài danh và dưới đũa chỉ huy của những nhạc trưởng danh tiếng. Danh mục biểu diễn của ông cũng rất đa dạng, ngoài những vở opera của Ý, ông còn xuất hiện trong Capriccio (Richard Strauss), Mazeppa (Tchaikovsky), Faust (Charles Gounod), Carmen (Bizet), Hercules (Handel),  Thaïs (Messenet)… Ông cùng với Tito Gobbi được coi là những baritone xuất sắc nhất nước Ý thời kỳ hậu chiến, những người kế tục xứng đáng cho “sư tử oai hùng” Titta Ruffo. Đạt được những thành tựu đáng kinh ngạc nên không có gì bất ngờ khi ông được Herbert von Karajan huyền thoại chú ý. Karajan đã mời Bastianini tham dự liên hoan Salzburg với vai diễn Rodrigo (Don Carlo, Verdi) vào ngày 28/7/1958 và sau đó là tại Vienna State Opera trong Rigoletto cùng với Hilde Gueden và di Stefano vào ngày 15/9. Ông đã trở thành thần tượng tại Vienna và sau đó nhiều lần biểu diễn tại thành phố này.

Năm 1959, ông hát trong đêm khai mạc mùa diễn tại La Scala trong La Bohème cùng với Renata Scotto và Gianni Raimondi. Ông tiếp tục tham gia có những buổi biểu diễn tại châu Âu và Mỹ với nhiều bạn diễn mới như Alfredo Kraus, Birgit Nilsson, Elisabeth Schwarzkopf hay Regine Crespin. Trong đêm diễn ngày 6/3/1960 tại Met trong Andrea Chénier, cùng với Bergonzi và Zinka Milanov, Bastianini đã đốt cháy đêm diễn bằng màn thể hiện ngoạn mục, đặc biệt với aria “Nemico della patria” khán giả đã vỗ tay điên cuồng đến nỗi nhà sản xuất Ed Rosen đã thốt lên: “Ông ấy đã ăn cắp đêm diễn”. Ngày 7/12/1960, Bastianini cùng với người bạn thân Corelli xuất hiện bên cạnh Callas tại La Scala trong đêm trở lại huyền thoại của bà với Poliuto (Donizetti), một trong những buổi biểu diễn được đánh giá cao nhất của Bastianini.

Bên cạnh việc ca hát, một trong những niềm đam mê lớn nhất của Bastianini là lái xe ô tô. Ông thường xuyên tự lái xe tới các điểm biểu diễn trên khắp châu Âu, tận hưởng cơ hội để ngắm nhìn khung cảnh dọc đường.

Nỗi đau khổ cuối đời

Năm 1962, Bastianini, dù rất nổi tiếng và vô cùng đẹp trai nhưng vẫn độc thân, cuối cùng đã tìm thấy cô gái của đời mình, Manuela.

Tháng 1/1962 ông hát trong La favorita cùng với Fiorenza Cossotto, Gianni Raimondi và một giọng bass đang lên Nicolai Ghiaurov. Tháng 2/1962, ông xuất hiện lần đầu và cũng là duy nhất tại Covent Garden trong Renato (Un ballo in maschera, Verdi) bên cạnh Regina Resnik, Joan Carlyle và Jon Vickers. Tháng ba, tại Parlermo, Bastianini vào vai Rigoletto, cùng với một tài năng trẻ đầy hứa hẹn đến từ Modena, Luciano Pavarotti.

Cũng với vai diễn này, ông quay lại La Scala vào ngày 10/4 nhưng thảm họa đã xảy ra trong màn II. Giọng ông bị vỡ khiến khán giả la ó. Tức giận, ông hủy bỏ đêm diễn cũng như các buổi sau, trở về Sienna bên mẹ mình. Bà được chẩn đoán mắc ung thư và qua đời vào ngày 3/5. Mang trong mình sự đau khổ, mệt mỏi và hỗn loạn, Bastianini quay trở lại công việc khi thu âm cùng Karajan trong một vai diễn mới ông chưa bao giờ hát trước đây, Iago trong Otello (Verdi). Với thể trạng và tinh thần không ở thời điểm sung mãn, ông không đảm trách được vai diễn và bị Karajan thay thế bằng Aldo Protti. Ông đi khám bệnh và được chẩn đoán là mắc viêm họng hạt. Mặc dù vậy, ông vẫn tiếp tục các dự án của mình, chủ yếu là tại Vienna. Ngày 31/7, cùng với Corelli, Leontyne Price, Simionato, ông đã hát trong Il trovatore dưới đũa chỉ huy của Karajan tại lễ hội Salzburg, một trong những màn trình diễn xuất sắc nhất tác phẩm này trong lịch sử thu âm. Tuy nhiên, giọng hát của Bastianini đã ngày càng bộc lộ sự thiếu ổn định. Ngày 23/9, ông vào vai Scarpia tại Vienna, bạn diễn của ông Stella đã cho biết: “Ông ấy không hề có cảm giác gì với nhân vật”. Những đêm diễn thành công và thất bại đan xen nhau. Bastianini vẫn có những buổi biểu diễn xuất sắc, nhận được những tràng pháo tay vang dội cũng như lời nhận xét có cánh từ phía nhà phê bình. Đơn cử như trong Pagliacci (Leoncavallo) với sự ra mắt của Marilyn Horne trong Nedda: “Khi ông ấy bước ra trước tấm màn vàng để hát lời mở đầu, ông ấy là nhân vật lôi thôi lếch thếch nhất chúng ta được nhìn thấy, ôi, nhưng âm thanh thật tuyệt vời! Ettore Bastianini, Tonio, anh hề xuất hiện và hát lời mở đầu hay nhất tại đây trong nhiều thập kỷ”.

Trên đường trở về nhà, ông ghé qua New York với hi vọng chẩn đoán được căn bệnh của mình. Thật tệ hại! Một khối u đã hình thành trên yết hầu, cơ quan kiểm soát cộng hưởng âm thanh. Ông bị ung thư vòm họng. Phẫu thuật sẽ mang lại cơ hội sống cao nhất nhưng sẽ hủy hoại giọng hát mãi mãi, điều mà Bastianini không dám đối mặt. Trở về Milan, ông được biết xạ trị bằng tia X là một lựa chọn tốt. Bastianini đã nắm bắt lấy cơ hội này. Sau ba tháng điều trị, thật tuyệt vời, khối u dường như đã biến mất và giọng hát của ông gần như vẫn còn nguyên vẹn. Xạ trị đã làm khô màng nhầy của yết hầu, làm yếu cơ của các khu liền kề dẫn đến giọng ông dễ bị vỡ khi lên các nốt cao. Dù sao cũng cảm thấy tốt hơn, Bastianini lại lao vào các vở opera tại Vienna và cùng với La Scala thực hiện chuyến lưu diễn tới Nhật Bản. Tuy nhiên, đợt khám bệnh sau đó mang lại kết quả thật tồi tệ. Khối u đã di căn. Suy sụp, Bastianini giấu kín căn bệnh, không nói cho một ai ngoại trừ những người thân thiết nhất. Ông cũng chủ động chia tay Manuela mà không giải thích lý do. Ông tạm dừng biểu diễn để điều trị ở Bern, Thụy Sĩ trong hai tháng. Sau đó, ông chủ yếu sinh sống và làm việc ở Vienna. Giọng ông trở nên nhẹ hơn, có âm sắc của tenor.

Năm 1965, một năm định mệnh. Sau Pagliacci và Aida ở Vienna, ông đến Florence để hát trong Tosca. Bạn diễn Magda Olivero sau này nhớ lại: “Những buổi biểu diễn là cơn ác mộng, nơi tôi cố gắng với tất cả sức mạnh của mình để giúp đỡ một sinh linh tội nghiệp đang bị tàn phá bằng căn bệnh khủng khiếp. Cậu ấy đang cố gắng trong tuyệt vọng để lấy ra khỏi cổ họng bị dày vò của mình giọng hát đã không còn sự thanh xuân và trong suốt những khoảnh khắc kịch tính nhất của phần Scarpia, để hỗ trợ cho nỗ lực mà cậu ấy đã tạo ra, cậu ấy nắm chặt lấy cái bàn và nhìn tôi trong đau đớn. Baritone vĩ đại với giọng hát vàng ròng mà tôi luôn tôn kính”. Niềm vui duy nhất của Bastianini vào thời điểm này có lẽ là việc con ngựa đua mà ông đặt tên là “Ettore” đã giành chiến thắng trong một cuộc đua tại quê nhà Sienna.

Với vai Scarpia, Bastianini đã quay trở lại Met vào tháng 2/1965, vai diễn mà ông lần đầu hát tại đây. Bastianini đã bị khán giả la ó, một điều có thể thường gặp tại các nhà hát tại Ý nhưng rất hiếm khi xảy ra tại Met. Không một ai biết ông đang bị ung thư và họ có một phản ứng tự nhiên khi Bastianini có một màn biểu diễn quá kinh khủng, giọng hát trở nên khô khan và thiếu nội lực. Ông làm một động tác khiếm nhã và bước ra khỏi sân khấu. Nhưng chính Met cũng là nơi ông giã từ sự nghiệp đầy vinh quang của mình. Ngày 11/12/1965, ông đã hát trong Don Carlo cùng Bruno Prevedi và Martina Arroyo. Khi Rodrigo ngã xuống, Bastianini cũng như vậy đối với những người hâm mộ.

Bastianini trở về quê nhà, sống ẩn dật với chú chó cưng Zabo, chỉ vài người rất thân thiết biết về tình trạng của ông, trong đó có vợ chồng Corelli và Simionato, những người là nguồn sức mạnh động viên cho những năm tháng cuối đời khủng khiếp của ông. Simionato chính là người công bố bệnh tình của ông tới mọi người. Công chúng, những nhà phê bình, đồng nghiệp trước đó đều thắc mắc trước sự sa sút bất ngờ của một giọng ca mới 40 tuổi, đang ở độ tuổi sung sức nhất của sự nghiệp ca hát, giờ đã hiểu nguyên nhân và đau buồn cho một nghệ sĩ tài hoa nhưng bất hạnh. Cô y tá chăm sóc ông đã tìm thấy Manuela, giờ đây đã lập gia đình. Manuela chính là người cuối cùng ở bên Bastianini khi ông qua đời vào ngày 25/1/1967 ở tuổi 44. Tất cả mọi người ở Sienna đều có mặt trong tang lễ được tổ chức với nghi thức nhà nước. Hoa từ khắp các nhà hát trên thế giới đổ về. Tiếng chuông của Palazzo Comunale đã vang lên. Trong nghĩa trang nhỏ, ngập nắng bên ngoài Porta Laterina, Ettore Bastianini đã được an nghỉ.

Mario del Monaco đã nghẹn ngào: “Với nỗi nhớ khôn nguôi. Ettore Bastianini, một trong những baritone vĩ đại nhất của thế kỷ này, một ví dụ hiếm hoi về sự thể hiện nhả chữ và kỹ thuật bel canto ở một giọng hát có vẻ đẹp diệu kỳ”. Đúng vậy, ký ức về nghệ thuật trình diễn của ông sẽ không bao giờ chết. Nó sẽ sống mãi trên khắp thế giới trong những người yêu opera thực sự: những người nghiên cứu nó, những người hát nó và đặc biệt, những người nghe nó.

Ngọc Tú (HNS)

Nhận xét