Umbert Giordano (1867-1948)

Khi nói đến opera verismo (chân thực) – trường phái opera bao trùm lên nước Ý vào những năm cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 với mục đích phơi bày hiện thực trần trụi của xã hội đương thời nhằm phản đối và đả kích những vở opera mang màu sắc thần thoại của Wagner, chúng ta thường nghĩ ngay đến Giacomo Puccini, nhà soạn nhạc tài năng với những tác phẩm đỉnh cao như La Bohème, Tosca, Madama Butterfly hay Turandot. Sau đó là những cái tên như Pietro Mascagni với Cavalleria rusticana và Ruggero Leoncavallo với Pagliacci, 2 tác phẩm ngày nay thường được biểu diễn chung trong một đêm nhạc. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng phải kể đến cái tên Umberto Giordano với vở opera Andrea Chénier, dựa trên câu chuyện về cuộc đời của nhà thơ Pháp André Chénier (1762-1794), người bị hành quyết trong Cách mạng Pháp. Với sự thành công của vở opera vào năm 1896, cái tên Giordano đã trở nên nổi tiếng và là một trong những đại diện tiêu biểu của trường phái opera verismo. Mặc dù Giordano còn sáng tác một số tác phẩm đáng lưu ý khác như Fedora hay La cena delle beffe nhưng Andrea Chénier vẫn là tác phẩm của nhà soạn nhạc nổi tiếng và được dàn dựng nhiều nhất.

Umberto Menotti Maria Giordano sinh ngày 28/8/1867 tại Foggia thuộc vùng Apulia miền Nam nước Ý. Là con trai của một dược sĩ, cha của cậu bé không hề muốn con trai mình đi theo sự nghiệp âm nhạc. Mặc dù vậy, tình yêu đối với loại hình nghệ thuật này đã khiến Umberto giấu cha mình, lén lút học nhạc với Gaetano Briganti, một nhà sản xuất nhạc cụ tại địa phương. Cuối cùng đến năm 1880, khi cậu bé 13 tuổi, cha Umberto đã thôi ngăn cản và đồng ý cho con trai mình được học nhạc một cách bài bản. Umberto đã vào học tại nhạc viện San Pietro a Maiella, Naples. Tại đây, thầy giáo của cậu là Paolo Serrao, một giảng viên về sáng tác và lý thuyết âm nhạc rất nổi tiếng lúc bấy giờ. Những nhà soạn nhạc nổi tiếng khác như Francesco Cilea hay Franco Alfano cũng từng là học trò của Serrao. Umberto theo học tại đây cho đến năm 1890 dù không liên tục. Để có tiền trang trải cuộc sống, trong những thời điểm không học tại nhạc viện, cậu làm công việc hậu trường, sắp xếp, dọn dẹp phông cảnh cho nhà hát Dauno ở Foggia.

Giordano bắt đầu sự nghiệp sáng tác của mình vào năm 1889 khi anh tham gia một cuộc thi sáng tác các vở opera một màn do nhà xuất bản ở Milan, Edoardo Sonzogno tổ chức. Cuộc thi này được tổ chức lần đầu vào năm 1883 và rất nổi tiếng vì được coi như sự khởi đầu cho trường phái verismo. Giordano đã gửi vở opera Marina tham gia cuộc thi. Đây cũng là tác phẩm đầu tay của anh. Kịch bản được anh mua chỉ với giá 25 lire. Ở tuổi 22, anh là thí sinh trẻ nhất tham gia cuộc thi. Marina chỉ giành giải 6 trong tổng số 73 tác phẩm dự thi, giải nhất thuộc về Cavalleria rusticana của Mascagni, ngày nay được coi là một trong những vở opera xuất sắc nhất của trường phái verismo. Mặc dù vậy, Giordano cũng thu hút được sự chú ý của Sonzogno, nhà xuất bản này đã đề nghị sáng tác một vở opera để có thể đưa lên sân khấu trong mùa diễn 1891-1892. Sonzogno đã nói với Giordano: “Tôi sẽ không xuất bản vở opera này vì tôi không thích libretto. Nhưng tôi sẽ ký hợp đồng với anh về một tác phẩm mới”.

Dựa trên kịch bản của Nicola Daspuro, Giordano đã sáng tác vở opera 3 màn Mala vita (Cuộc đời khốn khổ) lấy bối cảnh khu ổ chuột ở Naples vào đầu thế kỷ 19. Ngày 21/2/1892, Mala vita được công diễn ở Teatro Argentina, Rome và đã thành công rực rỡ. Giordano và dàn ca sĩ được gọi ra chào tới 24 lần sau khi hạ màn. Sau đó nó được biểu diễn ở Naples, Vienna, Berlin và Milan cũng như một số thành phố khác ở Ý trong hai năm tiếp theo. Vở opera đã được đón nhận nồng nhiệt, đặc biệt là ở các nước nói tiếng Đức, nhưng một cuộc bạo động đã nổ ra tại buổi ra mắt tác phẩm ở Naples, bối cảnh của tác phẩm. Phản ứng một phần xuất phát từ sự phẫn nộ khi một câu chuyện đồi bại với những nhân vật đều suy đồi về mặt đạo đức trong một khu ổ chuột lại xuất hiện trên sân khấu linh thiêng của nhà hát opera quan trọng nhất của thành phố. Vở opera biến mất trên sân khấu sau đó. Sau này, với hy vọng được khán giả Ý dễ chấp nhận, Giordano đã cho sửa lại tác phẩm, thay đổi cốt truyện, cũng như bối cảnh, đưa câu chuyện tới Arenaccia, một khu vực ngoại ô của Naples. Với tên gọi mới Il Voto, tác phẩm được công diễn ngày 10/11/1897 tại Teatro Lirico với Enrico Caruso trong vai chính. Tuy nhiên, khán giả vẫn đón nhận rất hờ hững và hầu như đã không còn được dàn dựng nữa.

Năm 1894, Giordano đã thử sức với một chủ đề lãng mạn hơn khi ông sáng tác vở opera Regina Diaz, với libretto của Giovanni Targioni-Tozzetti và Guido Menasci. Nhưng đây là một thất bại, vở opera bị loại khỏi sân khấu chỉ sau hai buổi biểu diễn. Sonzogno, tiếp tục là nhà bảo trợ cho dự án này đã đổ lỗi cho thất bại của tác phẩm là do libretto quá nghèo nàn trong khi Giordano đổ tại cho Sonzogno đã can thiệp quá nhiều vào quá trình dàn dựng. Giận dữ, Sonzogno đã huỷ bỏ các dự án hợp tác trong tương lai với Giordano. Chán nản, Giordano đã nghĩ đến chuyện từ bỏ công việc sáng tác. Tuy nhiên, tình cờ Giordano đã từng cứu giúp Mascagni khỏi một tai nạn xe điện. Để cảm ơn, Mascagni đã cùng với nhà soạn nhạc Alberto Franchetti tới gặp Sonzogno, thuyết phục ông tạo thêm cho Giordano một cơ hội nữa. Cuối cùng Sonzogno đã đồng ý. Franchetti đã giới thiệu cho Giordano kịch bản Andrea Chénier của Luigi Illica, vốn từng được đề nghị cho chính Franchetti sáng tác.

Giordano, lúc này đã chuyển đến sinh sống tại Milan đã bắt tay vào sáng tác Andrea Chénier. Ông sinh hoạt trong một điều kiện khá khốn khó. Giordano sống và sáng tác trong căn phòng của một nhà tang lễ với Illica sống ở tầng trên.

Ông đã sử dụng một số chất liệu âm nhạc hay nhất trong Regina Diaz để đưa vào tác phẩm mới này. Nội dung kịch bản đến từ cuộc cách mạng Pháp nên đã dẫn đến tình trạng phải tạm dừng dàn dựng trong một khoảng thời gian khi các nhà sản xuất lo ngại tình trạng chính trị bất ổn lúc bấy giờ tại Ý có thể dẫn đến bạo động và sự đón nhận của công chúng là chưa chắc chắn. Cuối cùng, vở opera cũng có đêm diễn ra mắt tại La Scala vào ngày 28/3/1896. Một chút trục trặc diễn ra trước giờ diễn khi giọng nam cao chính Alfonso Garulli từ chối vai diễn và Giuseppe Borgatti đã được gọi thay thế chỉ 11 tiếng đồng hồ trước giờ biểu diễn. Không khí khá căng thẳng, tuy nhiên, khi kết thúc đêm diễn là một thắng lợi vang dội. Ngay khi Borgatti kết thúc aria “Un dì all’azzurro spazio” trong màn I, khán giả đã yêu cầu ca sĩ hát lại và khi tấm màn nhung buông xuống, Giordano đã được khán giả yêu cầu ra chào lại tới 20 lần. Sự nghiệp của Giordano đã được cứu vãn. Ông đã được đảm bảo tương lai với tư cách một nhà soạn nhạc opera. Cùng với sự thành công của Andrea Chénier, sự nghiệp của Borgatti cũng thăng hoa. Anh trở thành giọng nam cao kịch tính nổi tiếng thế giới, vào năm 1904 là tenor người Ý đầu tiên xuất hiện tại Liên hoan Bayreuth trong các vở opera của Richard Wagner.

Andrea Chénier trở thành tác phẩm đỉnh cao nhất trong sự nghiệp của Giordano, lúc này mới chỉ 29 tuổi, vẫn thường xuyên được biểu diễn cho đến tận ngày nay. Nhiều trích đoạn trong vở opera trở nên rất nổi tiếng và thường xuyên được các ca sĩ biểu diễn trong các chương trình hoà nhạc hoặc recital như “Un dì all’azzurro spazio” (dành cho tenor), “La mamma morta” (soprano) hay duet “Vicino a te” trong cảnh kết của tác phẩm.

Thành công trong sự nghiệp của Giordano được nối tiếp với vở opera Fedora với kịch bản của Arturo Colautti, dựa trên vở kịch cùng tên được sáng tác năm 1882 của nhà viết kịch người Pháp Victorien Sardou. Trên thực tế, Giordano đã yêu thích tác phẩm này của Sardou ngay từ khi vở kịch được công diễn ở Naples vào năm 1889. Giordano đã tiếp xúc với Sardou, đề nghị được chuyển thể vở kịch thành opera nhưng đã bị từ chối vì Giordano khi đó còn là một nhà soạn nhạc chưa có tên tuổi. Sau khi công diễn Regina Diaz vào năm 1894, Sonzogno một lần nữa đặt vấn đề với Sardou nhưng hai bên không đạt được thoả thuận vì theo như Sonzogno cho biết, Sardou “đã đòi một mức phí cắt cổ”. Chỉ sau khi Giordano đạt được thành công với Andrea Chénier, Sardou mới đồng ý. Buổi biểu diễn ra mắt tác phẩm diễn ra ngày 17/11/1898 tại Teatro Lirico, Milan. Đây cũng là lần đầu tiên đánh dấu sự cộng tác giữa Giordano và giọng tenor trẻ lúc đó còn chưa thực sự nổi tiếng Enrico Caruso – người sau này sẽ trở thành huyền thoại. Sự thành công của đêm diễn đã mang lại câu nói phổ biến tại Milan thời bấy giờ “Fedora đã tạo ra Caruso và Caruso đã tạo ra Fedora”. Giordano sau đó đã tuyên bố chính ông đã hướng dẫn Caruso cụ thể cho vai diễn: “Tôi đã tạo ra một Caruso mới từ chính anh ấy”. Tuy nhiên, trong khi sau đó Caruso tạo dựng được một danh tiếng lẫy lừng mà bất kỳ ca sĩ opera nào cũng đều ao ước thì Fedora chỉ được dàn dựng khá hạn chế. Mặc dù vậy, sau khi thành công tại Milan, Fedora nhanh chóng giành được thành công trên trường quốc tế. Gustav Mahler đã biểu diễn nó tại Vienna State Opera và tại Paris, Fedora nhận được sự tán thưởng từ Jules Massenet và Camille Saint-Saëns.

Trong giai đoạn sau này, Giordano tiếp tục sáng tác các vở opera nhưng tất cả chúng đều không nằm trong danh mục các sáng tác thường xuyên được dàn dựng. Có thể kể đến Siberia với bối cảnh tại nước Nga, được công diễn lần đầu tại La Scala vào ngày 19/12/1903, đánh dấu sự tái hợp của bộ đôi Giordano và Illica. Giordano đã sửa chữa lại vở opera này vào năm 1927. Hay vở opera Madame Sans-Gêne của ông cũng xứng đáng được nhắc đến với lần ra mắt hoành tráng tại Metropolitan Opera vào ngày 25/1/1915 dưới sự chỉ huy của Arturo Toscanini với dàn ca sĩ thượng hạng Geraldine Farrar, Giovanni Martinelli và Pasquale Amato. Thành công cuối cùng của Giordano là vở opera La cena delle beffe, công diễn lần đầu tại La Scala vào ngày 20/12/1924. Sau chiến thắng tại La Scala, La cena delle beffe được trình diễn tại nhiều thành phố của Ý và nước ngoài. Buổi biểu diễn đầu tiên của vở opera tại Met diễn ra vào ngày 2/1/1926 với dàn diễn viên Frances Alda, Beniamino Gigli và Titta Ruffo dưới sự chỉ huy của nhạc trưởng Tullio Serafin.

Vở opera cuối cùng của Giordano là Il re (Nhà vua), với vai nữ chính được nhà soạn nhạc dành riêng cho soprano Toti Dal Monte, được công diễn ra mắt tại La Scala vào ngày 12/1/1929 dưới sự chỉ huy của Toscanini. Với tác phẩm này, Giordano đã thoát ra khỏi phong cách versimo, tạo dựng một vở opera hài hước, khá phổ biến trên sân khấu châu Âu thời bấy giờ. Bên cạnh các vở opera, Giordano cũng sáng tác một số tác phẩm dành cho dàn nhạc và hoà tấu thính phòng cũng như vở ballet L’astro magico (1928). Giordano rất quan tâm đến công nghệ ghi âm và đã hỗ trợ thành lập Discoteca di Stato ở Rome – kho lưu trữ chính của Ý về các bản ghi âm lịch sử. Giordano qua đời tại Milan vào ngày 12/11/1948 ở tuổi 81, để lại vở opera La festa del Nilo còn dang dở.

Ngày nay, không nhiều tác phẩm của Giordano được dàn dựng biểu diễn thường xuyên nhưng chỉ với vở opera Andrea Chénier, Giordano xứng đáng được coi là nhà soạn nhạc opera quan trọng của nước Ý nói riêng và thế giới nói chung. Đặc biệt, trích đoạn “La mamma morta” xứng đáng được coi là kiệt tác dành cho giọng nữ cao. Để tưởng nhớ tới người con xuất sắc của quê hương, nhà hát lớn và quảng trường tại thành phố Foggia đã mang tên ông. Tại quảng trường, ngoài bức tượng chính của Giordano còn có những bức tượng nhỏ hơn, khắc hoạ những nhân vật trong các vở opera của nhà soạn nhạc.

Ngọc Tú (tổng hợp)

Nhận xét